Douglas MacArthur - WW1, WW2 và Chiến tranh Triều Tiên

Tác Giả: Peter Berry
Ngày Sáng TạO: 14 Tháng Tám 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 10 Có Thể 2024
Anonim
Douglas MacArthur - WW1, WW2 và Chiến tranh Triều Tiên - TiểU Sử
Douglas MacArthur - WW1, WW2 và Chiến tranh Triều Tiên - TiểU Sử

NộI Dung

Douglas MacArthur là một vị tướng người Mỹ nổi tiếng với quyền chỉ huy lực lượng Đồng minh tại Nhà hát Thái Bình Dương trong Thế chiến II.

Tóm tắc

Douglas MacArthur sinh ra ở Little Rock, Arkansas, vào ngày 26 tháng 1 năm 1880. Sau khi tốt nghiệp Học viện quân sự Hoa Kỳ tại West Point năm 1903, ông đã chiến đấu trong Thế chiến I, và trong Thế chiến II là chỉ huy của lực lượng Đồng minh trong Thái Bình Dương. Khi ông chỉ trích việc xử lý Chiến tranh Triều Tiên của Tổng thống Harry Truman, ông đã được miễn lệnh. MacArthur qua đời vào ngày 5 tháng 4 năm 1964 và được chôn cất tại Norfolk, Virginia.


Đầu đời

Douglas MacArthur sinh ra trong một căn cứ quân sự ở Little Rock, Arkansas, vào ngày 26 tháng 1 năm 1880, trong một gia đình có lịch sử quân sự mạnh mẽ. Cha của ông, Arthur, là một đội trưởng tại thời điểm Douglas Sinh ra, và đã được trang trí cho sự phục vụ của ông trong Quân đội Liên minh trong cuộc Nội chiến. Mary Douglas, mẹ của Mary, đến từ Virginia, và các anh trai của cô đã chiến đấu cho miền Nam trong cuộc nội chiến. Căn cứ nơi Douglas được sinh ra chỉ là người đầu tiên trong số nhiều vị trí quân sự mà ông sẽ sống trong thời niên thiếu.

Năm 1893, gia đình ông chuyển đến San Antonio, Texas và MacArthur theo học Học viện quân sự West Texas, nơi ông bắt đầu thể hiện lời hứa học tập. Anh cũng là thành viên của một số đội thể thao của trường. Sau khi học trung học, MacArthur đăng ký vào Học viện quân sự Hoa Kỳ tại West Point, nơi ông đã xuất sắc, và năm 1903, ông tốt nghiệp loại giỏi.


Sau khi tốt nghiệp, MacArthur được ủy nhiệm làm sĩ quan cấp dưới trong Quân đoàn Kỹ sư và dành thập kỷ tiếp theo để hoàn thành nhiều nhiệm vụ khác nhau. Thời kỳ đầu trong sự nghiệp quân sự của ông được đánh dấu bằng các chương trình khuyến mãi thường xuyên và dẫn đến các bài đăng ở các nước trên thế giới, bao gồm Philippines, Nhật Bản, Mexico và, vào năm 1914, Pháp.

Thế chiến thứ nhất và sau

Khi bắt đầu Thế chiến I, MacArthur được thăng cấp thiếu tá và được giao cho những gì thực chất là các đơn vị hành chính và tình báo. Tuy nhiên, sau khi Hoa Kỳ tuyên chiến với Đức, Sư đoàn 42 (được gọi là Sư đoàn Cầu vồng, một đơn vị Vệ binh Quốc gia gồm các binh sĩ từ một số bang) đã được thành lập, và MacArthur được thăng cấp thành đại tá và đưa vào đó. chỉ huy. Năm 1918, ông đã tham gia vào các cuộc tấn công của St. Mihiel, Meuse-Argonne và Sedan, trong thời gian đó, ông đã nhiều lần tự nhận mình là một nhà lãnh đạo quân sự có khả năng.


Khi trở về từ châu Âu, MacArthur trở thành tổng giám đốc của West Point, một bài viết ông giữ trong ba năm tiếp theo. Trong thời gian này, ông được thăng cấp tướng quân đội và cũng kết hôn với người vợ đầu tiên, Louise Cromwell Brooks. Trong phần còn lại của thập niên 1920, MacArthur một lần nữa giữ nhiều chức vụ quân sự khác nhau và cũng đứng đầu Ủy ban Olympic Hoa Kỳ. Ông ly dị Louise năm 1929.

Năm 1930, MacArthur được thăng cấp tướng và được chọn làm tổng tham mưu trưởng quân đội. Trong vài năm tiếp theo, những nỗ lực của anh chủ yếu dành cho việc duy trì một quân đội, giống như phần còn lại của đất nước, bị tê liệt bởi cuộc Đại khủng hoảng. Ông cũng thường xuyên nói về những gì ông coi là mối đe dọa ngày càng nghiêm trọng của Chủ nghĩa Cộng sản, cả ở Hoa Kỳ và nước ngoài. Năm 1935, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã chọn MacArthur làm cố vấn quân sự của mình tại Philippines và gửi ông đến đó để thành lập một lực lượng quân sự phòng thủ. MacArthur kết hôn với người vợ thứ hai, Jean Faircloth, vào năm 1937 và năm sau đó, cô hạ sinh một đứa con trai, Arthur.

Chiến tranh thế giới thứ hai và chiến tranh Triều Tiên

Vào tháng 7 năm 1941, MacArthur được gọi lại làm nhiệm vụ tích cực và trở thành chỉ huy của lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương. Một cuộc xâm lược của Nhật Bản vào Philippines cùng năm đó đã đẩy lực lượng MacArthur vào đất nước này, nhưng trong những năm sau đó, MacArthur đã tiến hành một số hoạt động tấn công thành công chống lại quân đội Nhật Bản trong khu vực. Trong thời gian này, ông thường xuyên và công khai chỉ trích quyết định cấp trên của mình về việc tập trung các nguồn lực quân sự vào cuộc chiến ở châu Âu hơn là ở Thái Bình Dương.

Năm 1945, khi kết thúc chiến tranh, Tổng thống Harry S. Truman đã bổ nhiệm chỉ huy tối cao của Đồng minh MacArthur. MacArthur được giao phụ trách đầu hàng chính thức ở Tokyo, và trong sáu năm tiếp theo, ông ở lại Nhật Bản để chỉ huy lực lượng chiếm đóng ở đó và giám sát việc tái thiết đất nước.

Khi quân đội Bắc Triều Tiên xâm chiếm Hàn Quốc vào năm 1950, MacArthur được chỉ huy trong lực lượng của Liên Hợp Quốc mới thành lập và nhanh chóng đẩy lùi cuộc tấn công. Tuy nhiên, ông đã không lường trước được các cuộc tấn công sắp xảy ra của lực lượng Trung Quốc và sớm buộc phải rút lui. Sau hậu quả của thất bại này, MacArthur đã lên tiếng về niềm tin của mình rằng cuộc chiến nên được mở rộng để bao gồm cả Trung Quốc, bất chấp cảnh báo từ Tổng thống Truman rằng ông nên giữ ý kiến ​​của mình với chính mình. Bực tức vì MacArthur từ chối làm như vậy, Truman cuối cùng đã từ bỏ lệnh của ông vào tháng Tư năm 1951.

Sự kết thúc của một sự nghiệp quân sự

MacArthur trở về Hoa Kỳ và định cư tại Washington, D.C. Công chúng Mỹ chào đón anh trở lại như một anh hùng, nhưng Truman tiếp tục công khai chỉ trích hành động của mình. MacArthur dành phần lớn thời gian của mình để bảo vệ hành động của mình tại Hàn Quốc và chỉ trích hành động không hoạt động của Truman, cáo buộc ông ta đã cho phép Chủ nghĩa Cộng sản hoạt động tràn lan trong khu vực. Ông cũng được coi là một ứng cử viên tổng thống tiềm năng của đảng Cộng hòa, mặc dù không có chiến dịch thăm dò nào trong số này được phát triển thêm nữa. Năm 1952, MacArthur đã gặp Dwight Eisenhower, người vừa được bầu làm tổng thống, và khuyên ông về cách chấm dứt Chiến tranh Triều Tiên. Chiến lược cực kỳ quyết định của ông, bao gồm việc sử dụng vũ khí nguyên tử, đã bị từ chối.

Trong khoảng thời gian này, MacArthur và vợ chuyển đến thành phố New York, và ông được bầu làm chủ tịch hội đồng quản trị cho Remington Rand, một nhà sản xuất máy chữ và máy tính đời đầu. Bên cạnh những nhiệm vụ đi kèm với bài đăng này, MacArthur dành thời gian của mình để viết hồi ký, sau này sẽ được xuất bản thành Hồi ức và nối tiếp trong Đời sống tạp chí. Ông cũng sẽ gặp các tổng thống John F. Kennedy và Lyndon B. Johnson để tư vấn cho họ về các vấn đề quân sự.

Douglas MacArthur qua đời tại Washington, D.C., vào ngày 5 tháng 4 năm 1964, ở tuổi 84. Ông được vinh danh với một đám tang của tiểu bang và được chôn cất trong Đài tưởng niệm Douglas MacArthur ở Norfolk, Virginia. Đài tưởng niệm không chỉ là nơi an nghỉ của MacArthur và vợ Jean, mà còn là nơi lưu giữ một bộ sưu tập bảo tàng ghi lại cuộc đời và nghĩa vụ quân sự của ông.