John Marshall - Ý nghĩa, Thành tựu & Marbury v. Madison

Tác Giả: Peter Berry
Ngày Sáng TạO: 15 Tháng Tám 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 12 Có Thể 2024
Anonim
John Marshall - Ý nghĩa, Thành tựu & Marbury v. Madison - TiểU Sử
John Marshall - Ý nghĩa, Thành tựu & Marbury v. Madison - TiểU Sử

NộI Dung

John Marshall trở thành chánh án thứ tư của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ vào năm 1801. Ông chịu trách nhiệm chính trong việc thiết lập vai trò Tòa án Tối cao trong chính phủ liên bang.

Tóm tắc

Chánh án John Marshall sinh ngày 24 tháng 9 năm 1755, gần Germantown, Virginia. Năm 1780, Marshall bắt đầu hành nghề luật sư của riêng mình, bảo vệ khách hàng chống lại các chủ nợ người Anh trước chiến tranh. Từ năm 1782 đến 1795, ông đã nắm giữ nhiều cơ quan chính trị khác nhau, bao gồm cả vị trí ngoại trưởng năm 1800. Năm 1801, ông trở thành chánh án của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, phục vụ cho đến khi qua đời, vào ngày 6 tháng 7 năm 1835, tại Philadelphia, Pennsylvania.


Đầu đời

Chánh án John Marshall sinh ngày 24 tháng 9 năm 1755, ở vùng nông thôn Fauquier, gần Germantown trên biên giới Virginia. Ông là người đầu tiên trong số 15 đứa trẻ được sinh ra bởi Thomas Marshall và Mary Randolph Keith. Cha ông là một nhà khảo sát đất đai cho Lord Fairfax, và có thu nhập gọn gàng; anh họ của anh ta là Humphrey Marshall, người sau này trở thành thượng nghị sĩ Hoa Kỳ cho Kentucky. John Marshall và cha anh là hậu duệ của thực dân William Randolph, người đã giúp thành lập Khối thịnh vượng chung Virginia.

Khi còn nhỏ, Marshall chủ yếu được bố dạy ở nhà. Tuy nhiên, ông đã dành một năm tại Học viện Campbell (được thành lập bởi Reverend Archibald Campbell) ở Quận Westmoreland, với Tổng thống Hoa Kỳ tương lai James Monroe là bạn cùng lớp của ông.


Phục vụ trong Chiến tranh Cách mạng

Một ảnh hưởng lớn đến Marshall trong những năm thiếu niên là Tướng George Washington, một người bạn của Thomas Marshall. Marshall ngưỡng mộ Washington; Khi Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ nổ ra, Washington đã truyền cảm hứng cho Marshall, khi đó 20 tuổi, tham gia quân đội để có thể tham gia thành lập quốc gia mới. Marshall được bổ nhiệm làm trung úy với một dân quân tiểu bang tên là Culpeper Minuteman, sau đó được Trung đoàn 11 của Quân đội Lục địa Virginia tiếp thu. Lực lượng dân quân yêu nước đã giành được chiến thắng trước Quân đội Hoàng gia Anh tại Trận cầu lớn, giải phóng Virginia khỏi sự cai trị của Anh.

Sau chiến thắng của dân quân, Marshall trở thành sĩ quan trong Trung đoàn 3 của Quân đội Lục địa Virginia, phục vụ dưới quyền Đại tá Morgan. Marshall đã chứng tỏ bản lĩnh và sự dũng cảm của mình trong Trận Brandywine, nơi anh chiến đấu không ngừng nghỉ từ sáng đến tối. Trong trận chiến Germantown, anh ta bị thương ở tay trong khi lãnh đạo một nhiệm vụ. Tại Valley Forge, George Washington bổ nhiệm Marshall làm giám đốc pháp lý.


Vào năm 1780, khi đóng quân tại Oak Hill, Marshall đã nghỉ phép và đi thăm cha mình đang đóng quân ở Yorktown. Tại Yorktown, Marshall đã gặp người vợ tương lai của mình, Mary Willis Ambler, con gái của thủ quỹ Virginia. Marshall rời quân đội năm 1780 để học luật.

Thực thi luật pháp

Năm 1780, Marshall học luật bằng cách tham dự một loạt các bài giảng của Thẩm phán George Wythe tại Đại học William & Mary ở Williamsburg, Virginia, giáo dục pháp lý chính thức duy nhất mà Marshall sẽ nhận được và hiểu rõ về luật chung của Anh. Cùng năm đó, anh được nhận vào quán bar Virginia và bắt đầu hành nghề luật sư của riêng mình. Ông đã xây dựng thành công của pháp luật bằng cách bảo vệ khách hàng chống lại các chủ nợ người Anh, những người cố gắng thu thập các khoản nợ phát sinh trong thời kỳ thuộc địa của Anh, trước Cách mạng Mỹ.

Vai trò chính phủ

Marshall bắt đầu sự nghiệp của mình trong chính phủ bằng cách đại diện cho Hạt Fauquier trong Đại hội đồng trong một nhiệm kỳ. Năm 1782, ông gia nhập Hạ viện Virginia, đại diện cho quận Henrico. Ông sẽ trở lại vị trí vào năm 1787, và một lần nữa vào năm 1795.

Marshall chạy đua vào hội đồng thành phố vào năm 1785, nhưng đứng thứ hai và được làm thành phố ghi âm thay thế. Một trong những nhiệm vụ của ông là người ghi chép thành phố là làm thẩm phán tại Tòa án Hustings Richmond, nơi ông chủ tọa các vụ án hình sự và dân sự nhỏ. Thông qua vị trí này, Marshall tạo dựng được danh tiếng là một người đàn ông công bằng và khiêm tốn, giao tiếp rõ ràng và dựa trên các quyết định của mình dựa trên lợi ích chung.

Năm 1788, Marshall trở thành đại biểu cho hội nghị nhà nước được thành lập để phê chuẩn Hiến pháp Hoa Kỳ. Ông là một người ủng hộ mạnh mẽ để thay thế các Điều khoản của Liên minh bằng Hiến pháp.

Năm 1798, Marshall được mời tham gia Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Tuy nhiên, vẫn phát triển mạnh và hài lòng với thực tiễn tư nhân của mình, ông đã từ chối vị trí này, nhưng đồng ý tham gia vào một phái đoàn ngoại giao năm 1797 được mệnh danh là "Vụ XYZ". Với tư cách là một trong ba đặc phái viên đến Pháp, Marshall được gửi đến đó để giúp cải thiện mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Pháp (mục tiêu chính của ủy ban là ngăn chặn các cuộc tấn công của Pháp vào tàu Mỹ). Ở Pháp, hoa hồng của Marshall đã bị các quan chức Pháp từ chối, họ yêu cầu họ phải hối lộ. Marshall kiên quyết từ chối. Sau khi từ chối, anh ta trở nên nổi tiếng và thích khẩu hiệu "Hàng triệu người để phòng thủ, nhưng không phải là một xu cho cống phẩm", mặc dù dòng này thực sự đã được đoàn xe của Marshall, Charles Cotesworth Pinckney nói ra.

Năm 1799, Marshall được bầu vào một vị trí trong Hạ viện Hoa Kỳ, một vị trí mà ông sẽ chỉ nắm giữ trong một thời gian ngắn, khi ông được bổ nhiệm làm ngoại trưởng dưới thời Tổng thống John Adams vào năm 1800. (Trước đây Marshall đã nhận được nhiều lời mời làm việc dưới thời của Washington và Adams Chính quyền, nhưng, cho đến năm 1800, luôn từ chối các cơ hội.)

Sau này, từ năm 1829 đến 1830, Marshall cũng là đại biểu của Hội nghị lập hiến Virginia, cùng với người bạn học cũ của Campbell, James Monroe.

'Marbury v. Madison'

Một trong những trường hợp mang tính bước ngoặt đầu tiên của Marshall là Marbury v. Madison, trong đó thiết lập cơ sở của xem xét tư pháp. Vụ án đã được đưa ra Tòa án Tối cao vào năm 1803, sau một lịch sử thù địch: Đến cuối nhiệm kỳ của John Adams (trong khi Marshall đang làm thư ký của tiểu bang), Adams đã đưa William Marbury công lý hòa bình cho Quận Columbia. Thay vì bàn giao hoa hồng cho chính Marbury, Marshall để lại tài liệu cho người kế nhiệm là thư ký của tiểu bang, James Madison, để giao. Tuy nhiên, một khi Thomas Jefferson, đối thủ chính trị của Adams, nhậm chức tổng thống, Jefferson đã cấm Madison giao hoa hồng vì nó đã được những người ủng hộ của Adams rút ra. Marbury đã trả lời bằng cách đệ đơn kiện, yêu cầu Tòa án Tối cao ban hành lệnh của tòa án buộc Madison phải đưa tiền hoa hồng cho Marbury.

Chánh án John Marshall phán quyết rằng Tòa án Tối cao thiếu quyền lực để Madison trao lại ủy ban, mặc dù ông nghĩ rằng Marbury có quyền có nó. Trong quá trình này, Marshall xác định rằng Phần 13 của Đạo luật Tư pháp năm 1789, ủy quyền cho Tòa án Tối cao ban hành các văn bản cho các quan chức chính phủ, là vi hiến. Ngoài ra, ông kết luận rằng tất cả các luật xung đột với Hiến pháp nên từ đó trở thành "vô hiệu". Để làm như vậy, Marshall đã thiết lập quá trình xem xét tư pháp và sau đó, định vị ngành tư pháp ngang bằng với các đối tác của mình trong chính phủ Mỹ: các ngành lập pháp và hành pháp.

Năm 1807, Marshall có liên quan đến một vụ án cấp cao khác khi Tổng thống Thomas Jefferson buộc tội Phó Tổng thống Aaron Burr với tội phản quốc. Trước sự thất vọng của Jefferson, Marshall phán quyết rằng công tố thiếu bằng chứng đầy đủ để chứng minh tội phản quốc, và thay vào đó buộc tội Burr với một hành vi sai trái cao. Marshall đặt tiền bảo lãnh của Burr ở mức 10.000 đô la. Vụ án sai trái cao sau đó đã được gửi đến bồi thẩm đoàn, người, dựa trên bằng chứng mới, thấy Burr không phạm tội.

'McCulloch v. Maryland'

McCulloch v. Maryland, vào năm 1819, là một trong những trường hợp đáng chú ý khác của Marshall. Các ngân hàng nhà nước phẫn nộ với sự cạnh tranh của một ngân hàng quốc gia mới mà Tổng thống Madison đã mở vào năm 1816. Bang Maryland áp thuế lên ngân hàng quốc gia mà ngân hàng từ chối trả. Maryland tuyên bố rằng không có gì trong Hiến pháp trao cho chính phủ liên bang quyền mở một ngân hàng quốc gia. Tuy nhiên, Marshall phán quyết có lợi cho ngân hàng, nói rằng mặc dù Hiến pháp không cấp cho chính phủ liên bang quyền mở ngân hàng một cách rõ ràng, Điều khoản cần thiết và đúng đắn của Hiến pháp đã làm. Ngân hàng đã được tha, và Maryland không được phép tính thuế.

'Cohens v. Virginia'

Năm 1821, Marshall chủ trì Cohens v. Virginia, trong đó anh em Cohen, người đã bán vé số Washington, D.C. ở Virginia, đã kháng cáo bản án của họ vì đã vi phạm luật Virginia. Cohens lập luận rằng bắt đầu xổ số là một quyền theo luật liên bang; Tòa án tiểu bang Virginia phán quyết rằng khi một quyết định được đưa ra so với luật liên bang, luật tiểu bang đã bị áp đảo. Marshall ủng hộ niềm tin của Virginia, cho phép tiểu bang phạt tiền Cohens. Cuối cùng, ông quyết định rằng Tòa án Tối cao có quyền xem xét các vụ kiện nhà nước và đó là trách nhiệm của Tòa án Tối cao trong việc xử lý tất cả các trường hợp đặt ra câu hỏi về Hiến pháp. Được coi là một trường hợp quan trọng trong lịch sử, Cohens v. Virginia đã giúp thiết lập các tham số cho xung đột luật pháp địa phương và tiểu bang.

Cái chết và di sản

John Marshall tự hào phục vụ tại Tòa án Tối cao cho đến khi qua đời, vào ngày 6 tháng 7 năm 1835, ở tuổi 79, tại Philadelphia, Pennsylvania. Chuông tự do đã rung lên trong đám tang của anh. Truyền thuyết nói rằng đây là khi tiếng chuông vỡ, không bao giờ được rung nữa, mặc dù các tờ báo không bao giờ đưa tin về sự kiện này và nó chưa bao giờ được xác minh. Marshall được chôn cất tại Nghĩa trang Shockoe ở Richmond, Virginia, bên cạnh vợ anh, Mary Willis Ambler. Cả nước thương tiếc anh đi qua.

Trong suốt nhiệm kỳ 34 năm của mình với tư cách là chánh án, John Marshall đã đưa ra hơn 1.000 quyết định và đưa ra hơn 500 ý kiến. Ông đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định vai trò của Tòa án Tối cao trong chính phủ liên bang, thiết lập nó như là cơ quan quyền lực tối cao trong việc giải thích Hiến pháp.