NộI Dung
Ralph Waldo Emerson là một nhà thơ, nhà triết học và nhà tiểu luận người Mỹ siêu việt trong suốt thế kỷ 19. Một trong những bài tiểu luận nổi tiếng nhất của ông là "Tự lực.Tóm tắc
Ralph Waldo Emerson sinh ngày 25 tháng 5 năm 1803 tại Boston, Massachusetts. Năm 1821, ông đảm nhiệm vị trí giám đốc của trường anh trai của mình cho các cô gái. Năm 1823, ông đã viết bài thơ "Tạm biệt. Năm 1832, ông trở thành một người siêu việt, dẫn đến các bài tiểu luận sau đó" Tự lực "và" Học giả người Mỹ ". Emerson tiếp tục viết và thuyết giảng vào cuối những năm 1870. Ông mất ngày 27 tháng 4 năm 1882, tại Concord, Massachusetts.
Giáo dục và Giáo dục sớm
Ralph Waldo Emerson sinh ngày 25 tháng 5 năm 1803 tại Boston, Massachusetts. Ông là con trai của William và Ruth (Haskins) Emerson; Cha ông là một giáo sĩ, như nhiều tổ tiên nam của ông đã từng. Ông theo học trường Boston Latin, tiếp theo là Đại học Harvard (từ đó ông tốt nghiệp năm 1821) và Trường Thần học Harvard. Ông được cấp phép làm bộ trưởng vào năm 1826 và được phong chức cho nhà thờ Unitarian năm 1829.
Emerson kết hôn với Ellen Tucker vào năm 1829. Khi cô qua đời vì bệnh lao năm 1831, anh đau buồn. Cái chết của cô, thêm vào cuộc khủng hoảng đức tin gần đây của chính anh, khiến anh phải từ chức giáo sĩ.
Du lịch và viết
Năm 1832, Emerson tới Châu Âu, nơi anh gặp các nhân vật văn học Thomas Carlyle, Samuel Taylor Coleridge và William Wordsworth. Khi trở về nhà vào năm 1833, ông bắt đầu thuyết giảng về các chủ đề về kinh nghiệm tâm linh và đời sống đạo đức. Ông chuyển đến Concord, Massachusetts, vào năm 1834 và kết hôn với Lydia Jackson vào năm 1835.
Việc rao giảng sớm của Emerson thường đã chạm đến bản chất tâm linh cá nhân. Bây giờ ông đã tìm thấy những linh hồn tốt bụng trong một nhóm các nhà văn và nhà tư tưởng sống ở Concord, bao gồm Margaret Fuller, Henry David Thoreau và Amos Bronson Alcott (cha của Louisa May Alcott).
Mỹ siêu việt
Trong những năm 1830, Emerson đã giảng bài mà sau đó ông đã xuất bản dưới dạng bài tiểu luận. Những bài tiểu luận này, đặc biệt là Thiên nhiên Hồi giáo (1836), thể hiện triết lý mới được phát triển của ông. Học giả người Mỹ, người Bỉ dựa trên một bài giảng mà ông đã đưa ra vào năm 1837, khuyến khích các tác giả người Mỹ tìm ra phong cách của riêng họ thay vì bắt chước những người tiền nhiệm nước ngoài của họ.
Emerson được biết đến như là nhân vật trung tâm của nhóm văn học và triết học của ông, bây giờ được gọi là những người siêu việt Mỹ. Những nhà văn này đã chia sẻ một niềm tin quan trọng rằng mỗi cá nhân có thể vượt qua, hoặc vượt ra ngoài, thế giới vật lý của các giác quan thành kinh nghiệm tâm linh sâu sắc hơn thông qua ý chí và trực giác tự do. Trong trường phái tư tưởng này, Thiên Chúa không xa xôi và không thể biết được; Các tín đồ hiểu được Thiên Chúa và chính họ bằng cách nhìn vào linh hồn của chính họ và bằng cách cảm nhận mối liên hệ của họ với thiên nhiên.
Những năm 1840 là những năm làm việc hiệu quả đối với Emerson. Ông thành lập và đồng biên tập tạp chí văn học Mặt số, và ông đã xuất bản hai tập tiểu luận vào năm 1841 và 1844. Một số bài tiểu luận, bao gồm Tự lực, Hồi giáo Tình bạn và Kinh nghiệm, một số trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Bốn đứa con của ông, hai con trai và hai con gái, được sinh ra vào những năm 1840.
Công việc và cuộc sống sau này
Emerson Lát sau này làm việc, chẳng hạn như Ứng xử của cuộc sống (1860), ủng hộ sự cân bằng vừa phải hơn giữa sự không phù hợp cá nhân và mối quan tâm xã hội rộng lớn hơn. Ông chủ trương xóa bỏ chế độ nô lệ và tiếp tục giảng bài trên khắp đất nước trong suốt những năm 1860.
Đến thập niên 1870, Emerson già nua được biết đến với cái tên là nhà hiền triết của Concord. Mặc dù sức khỏe không thành công, ông vẫn tiếp tục viết, xuất bản Xã hội và cô đơn vào năm 1870 và một tập thơ có tiêu đề Parnassus năm 1874.
Emerson qua đời vào ngày 27 tháng 4 năm 1882, tại Concord. Niềm tin của anh ấy và chủ nghĩa lý tưởng của anh ấy đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến công việc của người bảo trợ Henry David Thoreau và Walt Whitman đương thời của anh ấy, cũng như nhiều người khác. Các tác phẩm của ông được coi là tài liệu chính của văn học, tôn giáo và tư tưởng Mỹ thế kỷ 19.