Gustave Eiffel - Kỹ sư

Tác Giả: Peter Berry
Ngày Sáng TạO: 18 Tháng Tám 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 10 Có Thể 2024
Anonim
Gustave Eiffel – Kỹ Sư Kết Cấu Vĩ Đại Nhất Nước Pháp Thế Kỷ 19
Băng Hình: Gustave Eiffel – Kỹ Sư Kết Cấu Vĩ Đại Nhất Nước Pháp Thế Kỷ 19

NộI Dung

Gustave Eiffel là một kỹ sư người Pháp, người đã thiết kế và giám sát việc xây dựng Tháp Eiffel.

Tóm tắc

Gustave Eiffel bắt đầu chuyên xây dựng bằng kim loại sau khi học đại học, và công việc ban đầu của ông tập trung chủ yếu vào các cây cầu. Năm 1879, kỹ sư trưởng trên Tượng Nữ thần Tự do đã chết và Eiffel được thuê để thay thế ông, tiếp tục thiết kế bộ xương kim loại của cấu trúc. Năm 1882, Eiffel bắt đầu làm việc trên cầu cạn Garabit, vào thời điểm đó, là cây cầu cao nhất thế giới. Ngay sau đó, anh bắt đầu nghiên cứu về cái được gọi là Tháp Eiffel, cấu trúc sẽ củng cố tên tuổi của anh trong lịch sử.


Đầu đời

Alexandre-Gustave Eiffel được sinh ra ở Dijon, Pháp vào ngày 15 tháng 12 năm 1832. Quan tâm đến việc xây dựng từ khi còn nhỏ, ông đã tham dự École Polytechnique và sau đó là École Centrale des Arts et producures (College of Art and Making) ở Paris, từ đó ông tốt nghiệp năm 1855. Bắt đầu sự nghiệp của mình, Eiffel chuyên về xây dựng kim loại, đáng chú ý nhất là những cây cầu. Ông đã làm việc trên một vài thập kỷ trong vài thập kỷ tới, để toán học tìm cách xây dựng các cấu trúc nhẹ hơn, mạnh hơn.

Dự án sớm

Một trong những dự án đầu tiên của Eiffel đến vào năm 1858, khi ông giám sát việc xây dựng một cây cầu sắt ở Bordeaux, và đến năm 1866 Eiffel đã thành lập công ty riêng của mình. Vào thời điểm ông thiết kế Phòng trưng bày Máy móc cho Triển lãm Paris năm 1867, danh tiếng của ông đã được củng cố. Năm 1876, ông đã thiết kế cây cầu Ponte Maria Pia vòm thép dài 525 feet bắc qua sông Douro ở Oporto, Bồ Đào Nha, được hoàn thành vào năm sau. Làm việc từ cùng một thiết kế gần 20 năm sau, ông đã xây dựng cầu cạn Garabit nổi tiếng dài 540 feet ở Truyère, Pháp. Nằm lơ lửng 400 feet trên mặt nước, đây là cây cầu cao nhất thế giới trong nhiều năm sau khi được xây dựng.


Khi sự nghiệp của anh thăng tiến, Eiffel rời khỏi công trình cầu đường, chẳng hạn như vào năm 1879 khi anh tạo ra mái vòm cho đài quan sát thiên văn ở Nice, Pháp, đáng chú ý là mái vòm có thể di chuyển được. Cùng năm đó, khi kỹ sư nội bộ ban đầu của Tượng Nữ thần Tự do, Eugène Viollet-le-Duc, bất ngờ qua đời, Eiffel đã được thuê để thay thế ông trong dự án. Ông đã tạo ra một hệ thống hỗ trợ mới cho bức tượng dựa trên cấu trúc xương thay vì trọng lượng để hỗ trợ da đồng. Eiffel và nhóm của ông đã xây dựng bức tượng từ mặt đất lên và sau đó tháo dỡ nó cho hành trình đến cảng New York.

tháp Eiffel

Eiffel nổi tiếng nhất với cái được gọi là Tháp Eiffel, được bắt đầu vào năm 1887 cho Triển lãm toàn cầu năm 1889 ở Paris. Tòa tháp bao gồm 12.000 thành phần khác nhau và 2.500.000 đinh tán, tất cả đều được thiết kế và lắp ráp để xử lý áp lực gió. Cấu trúc này là một điều kỳ diệu trong nền kinh tế vật chất, mà Eiffel đã hoàn thiện trong những năm xây dựng cầu Cầu nếu nó bị tan chảy, kim loại của tòa tháp sẽ chỉ lấp đầy căn cứ của nó sâu khoảng hai inch rưỡi.


Những người xem đều nhận ra rằng Eiffel có thể xây dựng cấu trúc cao nhất thế giới (ở độ cao 984 feet) chỉ trong hai năm và bị phá hủy bởi thiết kế độc đáo của tòa tháp, hầu hết đều cho rằng nó hiện đại và vô dụng. Mặc dù tòa tháp thu hút ngay lập tức như một điểm thu hút khách du lịch, nhưng chỉ vài năm sau, các nhà phê bình và người Paris bắt đầu xem cấu trúc này như một tác phẩm nghệ thuật.

Tòa tháp cũng hướng sự quan tâm của Eiffel đến lĩnh vực khí động học, và ông đã sử dụng cấu trúc này cho một số thí nghiệm và xây dựng phòng thí nghiệm khí động học đầu tiên tại căn cứ của mình, sau đó chuyển phòng thí nghiệm ra ngoại ô Paris. Phòng thí nghiệm bao gồm một đường hầm gió và công việc của Eiffel ở đó đã ảnh hưởng đến một số phi công đầu tiên, bao gồm cả anh em nhà Wright. Eiffel tiếp tục viết một vài cuốn sách về khí động học, đáng chú ý nhất là Sức cản của hàng không và hàng không, xuất bản lần đầu năm 1907.

Eiffel chuyển sự quan tâm của mình sang ngành khí tượng học trong những năm cuối cùng, nghiên cứu đề tài này trước khi chết vào ngày 27 tháng 12 năm 1923.